Cho đến nay cụm từ “hoạt động thương mại điện tử” đã không có còn quá xa lạ đối với tất cả chúng ta nữa. Càng ngày xu hướng bán hàng bằng công nghệ số càng ngày ngày càng phát triển. Các sàn giao dịch thương mại điện tử lớn như, shoppe, lazda, tiki,……luôn luôn có những ưu đãi và trợ giá lớn đối với khách hàng để có thể tăng lượng khách hàng lên một cách đáng kể. Vậy ta hiểu hoạt động thương mại là như thế nào? Quy định pháp luật về hoạt động thương mại ra sao? Sau đây chúng ta có thể đi tìm hiểu.

1. HOẠT ĐÔNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ LÀ GÌ?

    Hoạt động thương mại điện tử là hoạt động thương mại được thực hiện thông qua phương tiện điện tử. Khác với thương mại truyền thống là thương mại được thực hiện dựa trên các tài liệu bằng giấy (hợp đồng bằng văn bản giấy, chứng cứ bằng văn bản giấy), thương mại điện tử sử dụng các phương tiện điện tử để giao dịch và lưu trữ thông tin.

    Hoạt động thương mại điện tử trước tiên là hoạt động thương mại. Thuật ngữ “thương mại” hiện nay được hiểu theo nghĩa rộng, là các hoạt động phát sinh lợi nhuận từ khâu sản xuất đến tiêu dùng. Hoạt động thương mại không chỉ dừng lại ở việc mua bán, trao đổi hàng hoá đơn thuần mà còn bao trùm các hoạt động liên quan như quảng cáo, chào hàng, đặt hàng, giao kết hợp đồng, phân phôi, giao nhận sản phẩm, thanh toán … Đối tượng của thương mại không chỉ bó hẹp ở lĩnh vực hàng hoá mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như dịch vụ, vốn (đầu tư), tài chính.

    Là hoạt động thương mại, thương mại điện tử hội tụ các đặc điểm cấu thành của thương mại truyền thống. Giống như thương mại truyền thống, thương mại điện tử được tạo nên bởi ba dòng chảy: dòng thông tin (người sản xuất và người tiêu dùng ưao đổi thông tin cho nhau để biết nhà cung cấp đang bán gì, người tiêu dùng muốn mua cái gì), dòng hàng hoá (sau khi trao đổi thông tin nhà cung cấp sẽ sử dụng nhiều phương thức khảc nhau để giao hàng đã được yêu cầu cho khách hàng, từ đó tạo nên dòng hàng hoá) và dòng tiền tệ (sau khi đã nhận được sản phẩm mong muốn, khách hàng sẽ trả tiền). Khác với thương mại truyền thống, ba dòng chảy này trong thương mại điện tử có những đặc trưng riêng. Các dòng chảy này được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử.

    Đặc điểm của các hoạt động thương mại điện tử: 

– Về hình thức thực hiện: Các hoạt động thương mại điện tử được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử có kết nối mạng viễn thông. Trong hoạt động thương mại truyền thống, các giao dịch được tiến hành chủ yếu thông qua việc các bên gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành đàm phán, giao dịch và đi đến ký kết hợp đồng trên văn bản, giấy tờ …

– Về phạm vi hoạt động: Thông qua các phương tiện điện tử, hoạt động thương mại được thực hiện không phụ thuộc vào vị trí địa lý, thời gian. Các chủ thể có thể tiến hành các hoạt động thương mại điện tử ở bất cứ nơi nào, tại bất kì thời điểm nào.

– Về chủ thể tham gia: Nếu như trong thương mại truyền thống, một giao dịch phải có ít nhất hai chủ thể tham gia bao gồm người mua và người bán, người cung cấp dịch vụ và người nhận dịch vụ.

– Về thời gian thực hiện giao dịch: Nhờ việc sử dụng các phương tiện điện tử với công nghệ hiện đại và công nghệ truyền dẫn không dây, các giao dịch thương mại điện tử được thực hiện không phụ thuộc vào thời gian.

2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

     Thương mại điện tử phát triển và làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống đồng thời đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh và mạnh của thương mại điện tử cũng kéo theo nhu cầu cấp thiết phải có một khung pháp lý cho các hoạt động giao dịch bằng phương tiện điện tử này. Để thương mại điện tử thực sự là công cụ kinh doanh hiệu quả và an toàn, cần phải có các giải pháp không chỉ về mặt kĩ thuật, mà còn cần có một cơ sở pháp lý đầy đủ của quốc gia cũng như quốc tế.

Luật pháp quốc tế:

       Hiểu được tầm quan trọng của thương mại điện tử, cũng như những tác động to lớn của nó đối với nền kinh tế thế giới và sự phát triển thương mại của mỗi quốc gia, ngay từ những năm 90 của thế kỉ XX, các thiết chế quốc tế về thương mại đã quan tâm và soạn thảo khung pháp lý cho các giao dịch thương mại điện tử. Ở phạm vi toàn cầu, ủy ban Luật thương mại của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã ban hành Đạo luật mẫu về thương mại điện tử nhằm xây dựng khung pháp lý thống nhất điều chỉnh nhũng vấn đề phát sinh từ thương mại điện tử. Đây cũng là nỗ lực nhằm hài hoà pháp luật về thương mại điện tử của các quốc gia trên thế giới, đồng thời hướng dẫn các nước đưa ra được những đạo luật phù hợp với khả năng và thực tế kinh doanh của nước mình. UNCITRAL đã ban hành và cho công bố Công ước của Liên hợp quốc về việc sử dụng giao dịch điện tử trong hợp đồng quốc tế (UN Convention on the use of electronic communication in intemational contracts – Công ước này đã được ký kết chính thức vào ngày 06/7/2006 tại trụ sở của Liên hợp quốc với đại diện của 60 nước. Việt Nam đã tham gia với tư cách quan sát viên). Việc ban hành Công ước này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của thương mại điện tử trong thương mại quốc tế, đặc biệt là trong việc ký kết các hợp đồng quốc tể. Bên cạnh đó, UNCITRAL cũng cho ra đời một loạt các văn bản cốt lõi của hệ thống luật quốc tế về thương mại điện tử, trong đó có Luật mẫu về chữ ký điện tử năm 2001. Những văn bản này đã đặt nền tảng chuyên môn cho việc xây dựng một hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam và giúp Việt Nam hoà nhập và theo kịp các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.

Luật pháp quốc gia:

        Hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử của Việt Nam bao gồm: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, quy định một cách khái quát các hoạt động giao dịch điện tử; Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử (sau đây viết tắt là Nghị định số 52/2013/NĐ-CP); Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 sửa đổi, bổ sung một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương; Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (sau đây viết tắt là Nghị định số 130/2018/NĐ-CP)…

      Nhìn chung, Việt Nam đã ban hành tương đối đầy đủ các quy định liên quan đến giao dịch điện tử. Đối với những lĩnh vực chuyên ngành, có Nghị định số 165/2018/NĐ-CP ngày 24/12/2018 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 08/3/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra còn phải kể đến các văn bản của các Bộ, ngành về áp dụng thương mại điện tử trong các hoạt động chuyên ngành khác.

      Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP và các văn bản pháp luật được ban hành kèm theo, cùng với Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật dân sự năm 2015 đã tạo nến một hệ thống các văn bản pháp luật về thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng trong việc chính thức công nhận về mặt pháp lý hoạt động thương mại điện từ, khuyến khích thương mại điện tử phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam.  

     Chính vì vậy, để thương mại điện tử được thừa nhận hợp pháp ở nước ta, phải công nhận giá trị pháp lý của các thông tin điện tử cũng như các giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử. Các giao dịch này thường được thực hiện thông qua hình thức thư điện tử (email) hoặc bằng việc trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange – EDI). Các thông tin điện tử trong giao dịch thương mại điện tử có thể được thể hiện dưới hình thức như: Thông điệp dữ liệu; chữ ký số và giao dịch điện tử. Do vậy, đây là những nội dung pháp lý cơ bản của pháp luật về thương mại điện tử.

Đánh giá post